Các bài thơ trong Tam quốc diễn nghĩaGiọng đọc: Hoàng Hùngmiêu tả cuộc đời binh lửa trong những trận chiến của các anh hùng thời bấy giờ Tam Quốc diễn nghĩa của La tiệm Trung là 1 trong trong tứ đại danh tác của Trung Quốc ở kề bên Thủy hử, bình khang mộng cùng Tây du kí. Bạn đang xem: Thơ tam quốc diễn nghĩa. Bạn đã xem: 6 Thần tích thời Tam Quốc: Trương Phi hét sập cầu Trường Bản, Lưu Bị nhảy qua suối Đàn Khê; 7 sự kiện thương tâm nhất thời Tam Quốc khiến người đời cảm thán không thôi; 3 anh hùng lưu danh sử sách trong ‘Tam Quốc Diễn Nghĩa’ đều chỉ nhờ một chữ này Diễn viên Lý Thiết - người đóng con trai Lưu Bị trong 'Tam Quốc diễn nghĩa' qua đời ở tuổi 53. Theo Sina, Lý Thiết trút hơi thở cuối cùng vào 15h chiều 18/11 sau thời gian điều trị bệnh xuất huyết dạ dày. Gia đình nam diễn viên xác nhận thông tin với truyền thông. Họ dự Phim truyền hình Tam Quốc diễn nghĩa chuyển thể từ danh tác cổ điển cùng tên ra mắt lần đầu năm 1994. Phim có sáu đạo diễn làm việc cùng sáu biên kịch. Diễn viên chính gồm Tôn Ngạn Quân, Đường Quốc Cường, Bào Quốc An, Ngô Hiểu Đông, Lục Thụ Minh, Lý Tĩnh Phi Tam quốc diễn nghĩa: từ truyền thuyết dã sử đến tác phẩm văn học. mang dấu ấn cá tính sáng tạo. Bài làm : I. Tiểu sử tác giả. La Quán Trung tên là Bản, tên chữ là Quán Trung, lại có biệt hiệu là. "Hồ Hải tản nhân" có thể là người Thái Nguyên (còn có thuyết cho rằng Stv4nZ. Lịch sử Trung Quốc đã từng xuất hiện rất nhiều thời loạn thế, chẳng hạn như Xuân Thu Chiến Quốc, Hán Sở tranh hùng, Tam Quốc, Nam Bắc triều, Ngũ Đại thập Quốc… nhưng nếu nói về độ nổi tiếng và phổ biến nhất, các nhân vật được biết tới nhiều nhất thì không có thời đại nào có thể vượt qua Tam Quốc. Sở dĩ có điều đó là do thành công và ấn tượng mà cuốn tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa" đem lại cho hậu thế. Tiểu thuyết này là ví dụ tuyệt vời cho mối tương tác hết sức phức tạp giữa chính sử, dã sử, văn học viết hư cấu, văn chương dân gian và sinh hoạt văn hoá bình dân diễn ra trong một truyền thống văn hoá lớn - truyền thống Trung Hoa kéo dài qua bao thời đại. Người Trung Hoa ví các tác phẩm văn chương bất hủ như "mặt trăng mặt trời trường tồn cùng sông núi", Tam Quốc Diễn Nghĩa có thể nói chính là "Nhật nguyệt treo cao" trong kho tàng văn học Trung tưởng ủng Lưu phản TàoBa anh em nhà Lưu Bị, tranh lụa của Sekkan Sakurai 1715-1790, The Field MuseumTam quốc diễn nghĩa được xếp là 1 trong "Tứ đại danh tác" của Trung Hoa. Tác giả La Quán Trung đã nói rõ chủ đề ngay từ tên tác phẩm ông dùng lịch sử của ba quốc gia thời Tam quốc để diễn giải về “nghĩa” tư tưởng chính nghĩa của con người, lấy đó làm chủ đề chính. Tam quốc diễn nghĩa bao hàm ý nghĩa cao siêu của tiêu chuẩn đạo đức, luân lý truyền thống Trung Hoa, ngoài ra còn có đạo lý “Nhân quả báo ứng”, “Thuận theo tự nhiên”, “Người tính không bằng trời tính”. Tác phẩm không chỉ là tiểu thuyết đơn thuần, mà còn ẩn chứa những bài học răn dạy về đạo đức, những tấm gương được mọi người tôn kính thông qua những câu chuyện lịch sử. Bởi vì nắm chắc được điểm này cho nên Tam quốc diễn nghĩa mới có thể “trường thịnh không suy”, đi sâu vào lòng người đọc suốt nhiều thời đại như vậy, không chỉ ở Trung Quốc và cả ở Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Tam quốc diễn nghĩa là câu chuyện gần một trăm năm, sự việc nhiều nhưng không rối, đó là do ngòi bút có khuynh hướng rõ ràng của La Quán Trung. Tác giả đứng về phía Thục Hán, lên án Tào Ngụy, còn Tôn Ngô chỉ là lực lượng trung gian. Những nhân vật của Thục Hán như hoàng đế Lưu Bị với tư tưởng "trọng Nhân hòa, lấy dân làm gốc", gia đình thừa tướng Gia Cát Lượng suốt 3 đời phò tá triều đình với tấm lòng "cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi", các đại tướng Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Khương Duy võ nghệ xuất chúng lại tận trung vì nước, bao phen xả thân để bảo vệ cơ nghiệp nhà Hán; Cam phu nhân chỉ là nữ nhi mà thấu hiểu đạo nghĩa, My phu nhân sẵn lòng hy sinh tính mạng để cứu dòng dõi Lưu Bị... Mỗi nhân vật chính của nhà Thục Hán đều được khắc họa với chính khí lẫm liệt, là những tấm gương về trung thần nghĩa sĩ, con hiếu thảo, vợ tiết trinh. Nhà Thục Hán là sự kết tinh nguyện vọng của quần chúng nhân dân về một vị vua xuất thân hàn vi, biết thấu hiểu nỗi khổ và yêu thương quý trọng nhân dân, một triều đình thực hiện "nhân chính", một xã hội giàu đạo đức với những tấm gương tôi trung vợ tiết, một đất nước thống nhất và hoà bình. Đặc biệt trong bối cảnh tác phẩm ra đời, khi nhà Nguyên của ngoại tộc Mông Cổ đang thống trị Trung Hoa, tư tưởng "ủng Lưu phản Tào" còn thể hiện khát vọng của nhân dân có một vị vua kế thừa dòng máu người Hán Lưu Bị là dòng dõi hoàng thất nhà Hán, đánh đuổi triều đình ngoại tộc để giành lại giang sơn cho dân tộc Hán một kiệt tác sân khấu ra đời trong cùng thời kỳ cũng mang tư tưởng này, đó là Con côi nhà họ Triệu.Tuy Tam quốc diễn nghĩa có một số tình tiết hư cấu về lịch sử, nhưng về nét chính, các bộ chính sử Trung Quốc cũng công nhận triều đình Thục Hán có rất nhiều nhân vật đáng khen ngợi vua nhà Thục Hán là Lưu Bị vốn có xuất thân hàn vi, thuở nhỏ phải đan dép cỏ kiếm sống nên rất thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân, ông từ hai tay trắng gây dựng cơ đồ nhờ sự trợ giúp trung thành của các tướng sĩ, khi lên ngôi lại thi hành chính sách khoan hòa với nhân dân. Gia đình Thừa tướng Thục Hán là Gia Cát Lượng thì suốt 3 đời đều hết lòng tận tụy vì nước và rất liêm khiết, "trong nhà chẳng để thừa gấm vóc, bên ngoài không có điền sản dư dôi". Đại tướng Khương Duy là tổng chỉ huy quân đội cũng sống rất giản dị, "ăn uống rất mực tiết kiệm, trong nhà không có thiếp hầu, sau sân chẳng nghe thấy tiếng đàn hát". Danh tướng Triệu Vân không quản hiểm nguy một mình cứu ấu chúa trong trận Đương Dương - Trường Bản. Các cặp cha con Triệu Vân - Triệu Quảng, Gia Cát Chiêm - Gia Cát Thượng, Phó Đồng - Phó Thiêm thì "thụ mệnh lúc lâm nguy, cha con nối đời trung nghĩa" mà tráng liệt hy sinh. Những yếu tố đó rất gần gũi với hình mẫu một vị vua lý tưởng, một triều đình chân chính đối với nhân dân Trung Quốc thời phong kiến, nước Thục Hán mất rồi mà người dân địa phương đến cả nghìn năm sau vẫn còn hoài niệm và lập đền thờ. Do vậy, các câu chuyện dân gian về thời Tam Quốc có xu hướng ca ngợi Lưu Bị và nhà Thục Hán, căm ghét kẻ thù của ông là điều tất yếu, và xu hướng "ủng Lưu phản Tào" đã là tư tưởng chung của đại đa số nhân dân Trung Quốc từ trước cả khi tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa ra đời. Trong sách sử đời Bắc Tống đã có ghi lại một đoạn bút ký nói rằng “Những trẻ em trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc, thấy nói đến Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể Tào Tháo bại trận thì khoái chí reo mừng". Bút ký ấy cho thấy ngay cả trước khi Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung ra đời, nhân dân Trung Quốc đã có xu hướng "ủng Lưu phản Tào", họ yêu mến Lưu Bị và căm ghét Tào Tháo. Chính sự kế thừa nguyên vẹn tư tưởng đó đã giúp tác phẩm được đông đảo nhân dân Trung Hoa đón nhận, họ như thấy được thái độ yêu - ghét của chính bản thân ở ngay trong tác phẩm là sự kết hợp giữa sáng tác tập thể của các nghệ sỹ dân gian với sáng tác riêng của nhà văn, mà phần cốt lõi là sáng tác truyền miệng được tích lũy qua nhiều thế hệ. Những tác phẩm truyền miệng là kết tinh của trí tuệ tập thể, thể hiện một cách rõ nét ý thức chính trị xã hội, ý thức đạo đức luân lý và ý thức thẩm mỹ của đa số quần chúng nhân dân, trải qua nhiều năm được La Quán Trung gọt giũa, đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật cũng như triết lý nhân sinh. Những phẩm chất tốt đẹp mà nhân dân ca ngợi như Trung hậu nhân từ; Hào phóng chính trực; Anh dũng ngoan cường; Đoàn kết tương trợ; Thông minh mưu trí; Quên mình vì nghĩa... được các nghệ sỹ dân gian tập trung vào nhân vật Lưu Bị và nhà Thục Hán. Mặt khác, các nghệ sỹ dân gian cũng đem những thói hư tật xấu mà nhân dân căm ghét như Hung ác tàn bạo; Nham hiểm gian trá; Tự tư giả đối, Hống hách ngang ngược; Hoang dâm vô độ... gán cho các nhân vật Tào Tháo, Đổng Trác, Viên Thiệu... Có thể nói một cách không khoa trương rằng "Tam quốc diễn nghĩa" là một kho báu về thế giới quan, nhân sinh quan, quan niệm giá trị và quan niệm thẩm mỹ của quần chúng nhân dân thời cổ Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân cơ bản, khiến "Tam quốc diễn nghĩa" được đông đảo quần chúng nhân dân ưa thích qua nhiều thế ngữ văn họcTam quốc diễn nghĩa là tiểu thuyết sử thi nên giọng điệu chủ yếu là ca ngợi hay châm biếm hài hước để phê phán. Tác phẩm khoa trương những chiến tích để ca ngợi các anh hùng hảo hán, cường điệu những khó khăn hiểm trở để thử thách tài năng võ nghệ của các anh hùng. Các nhân vật luôn có vóc dáng khác người, những hành động phi thường và tâm hồn họ cũng cao thượng hơn hẳn so với người thường. Có lẽ vì thế, có nhiều trận đánh ác liệt tử vong rất nhiều nhưng tác phẩm vẫn không gây không khí bi thảm. Truyện giống như một bản anh hùng ca về sự dũng cảm, mưu lược, tấm lòng nhân ái trung nghĩa của các vị anh hùng nhà Thục Hán, mà hậu thế khi đọc vẫn phải thấy cảm kích và thu nhận những bài học quý giá cho chính ngữ của Tam quốc diễn nghĩa là sự kết hợp giữa văn ngôn và bạch thoại, sử dụng được ngôn từ thông dụng trong nhân dân. Ngôn ngữ kể chuyện lấn át ngôn ngữ miêu tả, và trong ngôn ngữ miêu tả rất ít sử dụng định ngữ và tính từ. Người Trung Quốc gọi loại miêu tả ngắn gọn như vậy là lối bạch miêu, nhưng nhờ lối kể chuyện khéo léo, đối thoại sinh động và sử dụng rộng rãi khẩu ngữ, các truyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại, chuyện lịch sử,... nên đã tạo cho tác phẩm một vẻ đẹp hấp dẫn vừa bác học và dân ca ngợi trong dân gian3 anh em Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi làm lễ kết nghĩa, một điển tích nổi tiếng trong Tam quốc diễn dân gian có rất nhiều tác phẩm thơ văn bắt nguồn từ những tích truyện nổi tiếng trong Tam Quốc Diễn tướng Thục Hán là Gia Cát Lượng được người dân Trung Quốc ca ngợi là "vạn đại quân sư" vì tài năng và lòng trung thành tuyệt vời, đền thờ ông tại thành Bạch Đế nổi tiếng nhất vẫn là tác phẩm của Đỗ Phủ đề tặngGia Cát danh thơm khắp hải hà,Tôn thần tượng ấy đủ cao chân đại đỉnh phân ranh giới,Một quạt kê mao đuổi giặc dựng bá vương tài Lã Vọng,Mở mang cơ nghiệp chí Tiêu HàNhững mong gánh vác phò vua Hán,Ngũ Trượng chưa yên mộng hải những thờ Quan Vũ tướng nhà Thục Hán có rất nhiều câu đối ca ngợi sự nghiệp và đức độ của ông. Những câu đối nổi tiếng nhất về Quan Vũ được ghi nhận là[17]Mặt đỏ lòng son, cưỡi Xích thố như gió, khi rong ruổi không quên vua Đỏ.[18]Đèn xanh xem sử xanh, nương thanh long yển nguyệt, chốn ẩn vi chẳng thẹn với trời xanhSinh ở Bồ châu, làm việc tại Dự châu cùng Lưu Bị, chiến Kinh châu, thủ Từ châu, trước giờ chỉ có duy nhất ở Thần châu[19]Anh là Huyền Đức, em là Dực Đức, bắt giữ Bàng Đức, tha Mạnh Đức[20], ngàn thu đức lớn không ai sánh bằngTướng Thục Hán là Triệu Vân với chiến tích một mình cứu chúa trong trận Đương Dương - Trường Bản thì được dân gian ca ngợi bằng bài thơMáu đỏ chan hòa áo giáp hồngĐương Dương ai kẻ dám tranh hùngXưa nay cứu chúa xông trăm trậnChỉ có Thường Sơn Triệu Tử LongNgay cả ở Việt Nam, dân gian đã có những câu thơ thể hiện tinh thần ca ngợi nhà Thục Hán trong truyện Tam quốc như sau[21]Truyện Tam quốc trực trần thật sựCoi với trong chánh chính sử không saiĐã lắm trang quỷ quyệt trí tàiLại nhiều kế tâm hoài nghĩa khíAi nhân từ bằng ông Lưu BịAi gian hùng như Ngụy Tào ManQuan công Hầu một tấm trung canLòa ngọn đuốc rỡ ràng gương nhật nguyệtTrương Dực Đức oanh oanh liệt liệtTính bình sanh chân thật trực tìnhNhà thơ Tản Đà của Việt Nam có bài thơ ca ngợi lòng tận trung báo quốc của Thừa tướng Gia Cát Lượng của nhà Thục HánLục xuất Kỳ Sơn Gia Cát LượngLòng trung chói sáng cõi nhân hoànBiểu xuất sư hoà lệ chứa chanXiết nghĩ giang sơn cùng ấu chúaThành bại, hưng vong, trời đã địnhTranh hùng cát cứ khả do nhân Bạn đang quan tâm đến Những câu nói hay nhất trong tam quốc diễn nghĩa phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé! Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc bên cạnh Thủy hử, Hồng lâu mộng và Tây du đang xem Thơ tam quốc diễn nghĩaBạn đang xem Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc bên cạnh Thủy hử, Hồng lâu mộng và Tây du kí. Nội dung xuyên suốt chủ yếu của tác phẩm kinh điển này nói về cuộc đấu tranh giữa ba thế lực phong kiến bao gồm nhà Ngụy do Tào Tháo đứng đầu, nhà Thục do Lưu Bị đứng đầu và nhà Ngô do Tôn Quyền đứng đầu trong việc nhất thống thiên hạ. Tuy nhiên cái kết cuối cùng lại hết sức bất ngờ khi giang sơn lại rơi vào tay con cháu của Tư Mã Ý, vốn là một đại thần trong triều Ngụy. Tam quốc diễn nghĩa không chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học mang tính sử thi mà nó còn để lại những giá trị nhân văn đầy sâu sắc cho biết bao thế hệ người đọc trên toàn thế giới. Và chúng ta hãy cùng nhau xem lại 11 câu nói kinh điển của các nhân vật nổi tiếng trong bộ tiểu thuyết này nhé!1. “Nhân trung Lữ Bố, mã trung Xích Thố”Ý nghĩa của cậu nói này tức người thì phải được như Lữ Bố còn ngựa thì phải là ngựa Xích nói này không xuất phát từ một nhân vật nổi tiếng nào mà lại được lan truyền đi khắp thiên hạ, đủ để nói lên tài năng cũng như phẩm chất của Lữ Bố và ngựa Xích Bố được coi là anh hùng thiên hạ và không có đối thủ trong truyện Tam quốc. Với phương thiên họa kích trong tay, cưỡi ngựa Xích Thố vô địch, Lữ Ôn Hầu trở nên bất khả chiến bại. Tuy nhiên với bản tính hung hăng cùng sự kiêu ngạo của mình, cuối cùng Lữ Bố đã phải nhận cái chết thương tâm khi bị quân sĩ làm phản, bắt trói và giao cho Tào “Ngũ Thường họ Mã, Bạch Mi giỏi nhất”Lịch sử ghi chép rằng có năm người con trai nhà họ Mã vốn thông minh hơn người, tên tự lần lượt là Bá Thường, Trọng Thường, Thúc Thường, Quý Thường, Ấu Thường, nên gọi là Ngũ Thường. Chân mày của Mã Lương, tức là Quý Thường có màu trắng, nên người đời gọi là “Bạch Mi”, do đó mới có câu “Ngũ Thường họ mã, Bạch Mi giỏi nhất”. Trong năm anh em, người được nhiều người biết đến nhất chỉ có hai anh em Mã Lương và Mã Tốc. Mã Lương thật sự là bậc kì tài, tài hoa xuất chúng, ông đã bỏ không ít công sức trong việc giúp Lưu Bị ngồi vững ở Tây Xuyên, đáng tiếc là ông mất quá sớm. Tuy nhiên người anh Mã Lương lại đánh giá sự thông minh của mình không thể so bì với người em trai là Mã Tốc, cậu học trò của Khổng Minh. Tuy nhiên cũng bởi thông minh mà sinh kiêu ngạo, Mã Tốc đã để thua trong trận đấu đầu tiên do mình cầm quân và để mất Nhai Đình và sau đó đã bị Gia Cát Lượng xử tử do đã vi phạm quân lệnh trạng. Khi người ta đọc đến câu này, một là tiếc cho Mã Lương đã mất quá sớm, hai là tiếc thay Mã Tốc thông minh cả đời nhưng lại hồ đồ một lúc dẫn đết kết cục đầy bi “Hết lòng tận tụy, đến chết mới thôi”Đây là câu nói của Gia Cát Lượng biểu hiện tâm tình rõ nhất của ông với Thục đế Lưu Bị và Thục chủ lúc bấy giờ là Lưu Thiện khi sáu lần ra Kỳ Sơn đánh Ngụy nhưng không thể thay đổi được mệnh trời vào lúc cuối đời. Nó cũng đã trở thành một câu nói ngoài cửa miệng của người thời nay. 4. “Trời đã sinh ra Du, sao còn sinh ra Lượng”Đây là câu nói mà Chu Du – đô đốc của nhà Ngô đã thốt lên từ tận đáy lòng mình trước khi qua đời, câu nói cho thấy sự phẫn uất lên đến tận cùng của Chu Du với Gia Cát Lượng. Câu nói này quá tự ti, tôn vinh chí khí của Gia Cát Lượng mà hạ bệ uy phong của chính mình. Tuy là một người vô cùng tài giỏi và chỉ đứng sau Tôn Quyền tại Giang Đông nhưng Chu Du luôn luôn tỏ ra đố kị với tài năng và trí thông minh của Khổng Minh để rồi cuối cùng chết trong phẫn uất. Do đó trong Tam Quốc diễn nghĩa, Chu Du là đại danh từ tượng trưng cho lòng dạ hẹp hòi, không chịu thua “Khắp người Tử Long đều là gan”Đây là câu nói mà Lưu Bị đã dành cho vị chiến tướng của mình là Thường Sơn Triệu Tử Long. Trong Tam Quốc diễn nghĩa, Triệu Vân không phải là đối tượng được tác giả chú trọng miêu tả nhưng vì mỗi lần ông ra trận đều là tư thế hiên ngang hùng dũng, đánh đâu thắng đó, có thể được một câu khẳng định của chủ nhân như vậy, tất nhiên là vui mừng đến nỗi không còn biết trời đất gì nữa. Và đương nhiên những người đọc Tam Quốc sẽ không thể nào quên hình tượng dũng mãnh của Triệu Vân một mình xông pha giữa trăm vạn quân Tào liều mình cứu Ấu “Phục Long, Phượng Sồ được một trong hai, ắt được thiên hạ”.Đây là câu nói của Tư Mã Huy khi Lưu Bị hỏi ông xem ai có thể giúp mình bình được thiên hạ. Ông vô cùng coi trọng Gia Cát Lượng và Bàng Thống và từng ví Gia Cát Lượng với Khương Thượng, Trương Lương vậy nên những lời này từ miệng ông nói ra cũng không có gì là lạ. Cả hai đều là bậc kỳ tài trong thiên hạ, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, do đó những lời này cũng không phải là nói quá chút nào. Tuy nhiên điều kỳ lạ là dù sau này Lưu Bị đều có được hai người này nhưng lại không thể bình định được thiên hạ. Đó là chủ để gây tranh cãi rất nhiều về sau này. 7. “Việc trong không ổn hỏi Trương Chiêu, việc ngoài không ổn hỏi Chu Du”Đây là lời trăn trối của Tôn Sách trước lúc lâm trung cho người em ruột của mình hay Ngô Vương sau này Tôn Quyền. Tôn Quyền đảm nhận trọng trách lớn cai quản một vùng Giang Đông rộng lớn khi mới 17 Sách khi nắm quyền thường bị cho là “sách lược thì thiếu, khí phách có thừa” nghĩa là đấu võ rất giỏi nhưng mưu mẹo thì lại không có. Không ngờ rằng ông lại vẫn có tài nhìn người như vậy. Ý nghĩa câu nói của Tôn Sách đó là những việc khó mà em không quyết được, nếu là nội trong nhà thì hỏi Trương Chiêu con nếu là việc ngoài binh đao thì phải hỏi Chu Du. Và sự thật đã được chứng minh khi Trương Chiêu đã giúp đỡ cho Tôn Quyền rất nhiều trong việc cai quản Giang Đông còn Chu Du đã giúp cho nhà Ngô đánh bại quân Ngụy của Tào Tháo với trận Xích Bích nổi tiếng thiên “Sinh con thì phải được như Tôn Trọng Mưu”Thật khó tin khi câu nói này lại được phát ra từ miệng của Tào Tháo. Câu nói này hàm ý khen con trai của Tôn Kiên là Tôn Quyền Tôn Trọng Mưu. Thực tế đã chứng mình khả năng nhìn người rất tài ba của Tào Tháo khi Tôn Quyền sau này dù lên ngôi khi còn rất trẻ nhưng vẫn đứng vững trước các thế lực và trở thành đối trọng lớn nhất với Tào Tháo và Lưu Bị. 9. “Anh hùng trong thiên hạ, chỉ có sứ quân và Tháo thôi”Đây là câu nói kinh điển của Tào Tháo khi cùng Lưu Bị uống rượu luận anh hùng. Người đời sau cho rằng, trong tất cả những lời mà Tào Tháo từng nói qua, câu nói này là sâu sắc nhất. Khó trách Lưu Bị sợ đến nỗi làm rơi cả muỗng cũng may đúng lúc có tiếng sấm trên trời nên Lưu Bị mới có thể che giấu được mưu đồ của mình và khiến cho Tào Tháo không còn e ngại Lưu Bị nữa. 10. “Quan giỏi thời thịnh thế, gian hùng thời loạn lạc”Câu nói này không chỉ là định ra tính cách một đời cho Tào Tháo mà cũng nói ra năng lực của ông, trong thời thịnh thế, ông là quan thần trị quốc an bang còn trong thời loạn lạc thì là thủ lĩnh quân sự độc bá một phương. Một điều khác cũng khiến cho Tào Tháo vui mừng ra mặt khi nghe được câu nói này là vì ông không muốn đăng cơ xưng đế, để rồi trở thành kẻ bị người đời phỉ báng như Đổng thêm Ca Sĩ Lâm Khánh Chi - Lâm Khánh Chi Ly Hôn, Mắc Covid11. “Ta thà phụ người chứ quyết không để người phụ ta”Câu nói cuối cùng để khép lại 11 câu nói bất hủ của các anh hùng kiệt xuất trong Tam Quốc mà mình muốn nhắc đến ở đây chính là câu nói này của Tào Tháo. Câu nói này được Tào Thào nói với Trần Cung khi Trần Cung hỏi Tào A Man tại sao lại giết cả Lã Bá Sa mặc dù biết được gia đình ông ta không hề có ý định hãm hại mình mà trái lại còn bày tiệc chiêu đãi. Nó thể hiện bản chất man trá, lạnh lùng đến đáng sợ của Tào Tháo. Tuy câu nói này bị người đời đánh giá có phần tiêu cực nhưng có nhiều ý kiến lại cho rằng, nó rất đúng với thời thế loạn lạc lúc bấy giờ và trở thành quan điểm sống của rất nhiều người bây giờ. Quan điểm này của Tào Tháo hoàn toàn trái ngược với Lưu Bị khi ông luôn tâm niệm rằng “Thà người thiên hạ phụ ta chứ ta quyết không phụ người trong thiên hạ”.Chúc các bạn thành công ! Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Những câu nói hay nhất trong tam quốc diễn nghĩa. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây và kính chúc quý độc giả năm mới 2022 an khang thịnh vượng ! Thông báo Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem. Vào cuối thời Đông Hán, một triều đại kéo dài 400 năm lịch sử dần bắt đầu đi đến hồi kết, triều đình thối nát, hoạn quan chuyên quyền, quan lại tham nhũng, nạn đói hoành hành. Là bối cảnh xã hội của Trung Hoa lúc bấy giờ. Đổng Trác, 1 thế lực đến từ phía tây bắc đem quân tiến vào kinh thành tiêu diệt hoạn quan, khống chế triều chính lập vị vua trẻ tuổi là Hán Hiến Đế lên ngôi. Tự phong mình là Thái Sư, nắm trọn toàn bộ quyền lực. Năm 190, liên minh các sứ quân do Viên Thiệu cầm đầu đã khởi binh nổi dậy ở các tỉnh miền đông chống lại Đổng Trác. Sau cuộc chiến, dưới áp lực của liên quân Đổng Trác phải mang theo Hiến Đế chạy về phía Tây tới Trường An vào năm 191. 1 năm sau, vì mắc mỹ nhân kế của Vương Doãn, ông bị con nuôi của mình là Lã Bố giết chết. Cũng từ sau cái chết của Đổng Trác, liên minh các sứ quân tan rã, các lãnh chúa địa phương vì sự tranh giành đất đai và quyền lực quay sang tấn công lẫn nhau. Đổng Trác chết, các bộ tướng dưới quyền là Lý Thôi, Quách Dĩ cũng tranh nhau quyền lực. Nhân cơ hội đấy, Hiến Đế tháo chạy khỏi kinh thành. Năm 196, ông được Tào Tháo hộ giá về Hứa Đô, tưởng chừng quyền lực hoàng đế sẽ được khôi phục nhưng lại bị Tháo sử dụng như con bài được gọi là "nắm Thiên Tử lệnh chư hầu". Lúc này Trung Hoa bị phân chia giữa các thế lực quân phiệt đáng gờm như Viên Thiệu ở Ký Châu đối đầu với Công Tôn Toản ở phía bắc, ở Từ Châu có Lưu Bị - mang trong mình máu mủ hoàng tộc cùng 2 người anh em kết nghĩa là Quan Vũ, Trương Phi ôm hoài bão phục hưng lại sự thịnh vượng của nhà Hán. Lã Bố sau khi giết được Đổng Trác, không lâu sau ông cũng bị các thuộc hạ của Trác đuổi đánh khỏi Trường An và hiện đóng quân ở Hạ Bì. Viên Thuật nắm Ngọc Tỉ trong tay và xưng đế ở Thọ Xuân. Xa hơn nữa về phía nam là viên tướng trẻ Tôn Sách xây dựng lực lượng tại khu vực hạ lưu sông Dương Tử, ôm mộng làm chủ miền nam Trung Hoa. Họ Tôn có 1 kẻ thù không đội trời chung trong khu vực đó là Lưu Biểu ở Kinh Châu. Những lãnh chúa khác như Mã Đằng, Lý Thôi,Trương Lỗ, Lưu Chương cũng dáy lên làn sóng tranh giành địa bàn. Chiến sự nổ ra khắp các khu vực tại Trung Hoa. Sử gọi đây là "quần hùng cát cứ". Khi Tào Tháo nắm trong tay vua Hán lực lượng trở nên hùng mạnh, địa bàn từng bước mở rộng; trong vòng 4 năm sau đó, ông lần lượt tiêu diệt Lã Bố ở Từ Châu, thôn tính Viên Thuật ở Thọ Xuân và trở thành phe quân phiệt mạnh nhất phía đông. Cùng lúc, Viên Thiệu cũng đã tiêu diệt đối thủ Công Tôn Toản ở phía bắc và trở thành thế lực mạnh mẽ nhất mà Tào Tháo chưa từng dám đối địch khi mới đến Hứa Đô. 2 tập đoàn quân phiệt mạnh nhất Trung Hoa được hình thành. Viên Thiệu với 70 vạn đại quân có tham vọng tiến xuống miền nam tranh thiên hạ. Lúc bấy giờ, Tào Tháo chỉ có trong tay quân để chống lại Viên Thiệu. Sau nhiều tháng lập kế hoạch, 2 bên đã giao tranh tại Quan Độ. Nhờ phát hiện và đốt cháy kho lương của quân Viên, Tháo thừa cơ dẫn quân tập kích khiến Viên Thiệu đại bại tan nát. Không lâu sau đó, Viên Thiệu suy sụp và bệnh mất. Các con trai của ông ta tranh quyền đoạt vị và tàn sát lẫn nhau. Tháo giành hoàn toàn thế chủ động. Vào năm 207, Tào Tháo tiêu diệt hoàn toàn thế lực tàn dư các con trai Viên Thiệu thống trị toàn bộ miền bắc Trung Quốc. Sau khi liên minh với Viên Thiệu bị tan vỡ, Lưu Bị phải chạy về Kinh Châu nương náu dưới trướng Lưu Biểu. Năm 208, Tào Tháo xuất quân nam chinh với ý định nhanh chóng thống nhất đế chế. Trước tình cảnh đó, Lưu Bị 3 lần thăm lều tranh và chiêu mộ được quân sư Gia Cát Lượng. Lượng đề ra kế sách "liên Ngô kháng Tào" và áp dụng ngay sau đó. Nghe tin quân Tào nam tiến, con Lưu Biểu là Lưu Tòng đầu hàng và dâng đất Kinh Châu. Tào Tháo có đất mà chả tốn 1 binh sĩ nào. Trong tình thế nguy cấp, Lưu Bị sai sứ sang Giang Đông đề xuất liên minh kháng Tào Tháo. Tôn Quyền lúc này người kế vị Tôn Sách ở Giang Đông mở cuộc họp bàn bạc với các mưu sĩ, cuối cùng ông cũng ra quyết định cùng Lưu kháng Tào. Mùa đông năm 208, Tào Tháo triển khai 1 lực lượng thủy quân lên đến 80 vạn quân hướng thẳng vào Giang Đông. Đại đô đốc Chu Du thống lĩnh thủy quân Giang Đông nghênh chiến quân Tào ở Xích Bích. Liên quân Tôn - Lưu lúc này chỉ có 5 vạn, quân Tào do đến từ phương bắc nên không thạo thủy chiến lại bị say sóng, nên Tháo lệnh cho các tàu chiến xích lại với nhau. Vì thế mà Chu Du dễ dàng sử dụng hỏa công thiêu rụi 80 vạn quân Tào trên sông chỉ trong 1 đêm. Sau trận chiến Lưu Bị thừa thắng chiếm đất Kinh Châu của quân Tào và các thành trì ở phía nam. Năm 214, Lưu Bị đưa quân vào Ích Châu và đánh bại Lưu Chương trở thành 1 thế lực tầm cỡ, đối trọng với Tào Tháo ở phía bắc. Sau khi thua trận Xích Bích, Tào Tháo khôi phục lại lực lượng. Sau đó đem quân triệt tiêu các thế lực cát cứ còn lại ở phía tây như Mã Siêu, Hàn Toại, Trương Lỗ. Năm 219, tướng trấn giữ Kinh Châu của phe Lưu Bị là Quan Vũ xuất chinh bắc tiến vây hãm Phàn Thành. Trước thế tiến công như vũ bão, quân Tào không chống đỡ nổi. Nhân cơ hội Lưu Bị và Tôn Quyền đang bất hòa về việc tranh chấp lãnh thổ, quân sư Tư Mã Ý của phe Tào hiến lên diệu kế "liên Ngô kháng Quan Vũ". Sau khi đạt được thỏa thuận chung, Tào -Tôn liên minh với nhau, Tôn Quyền phái đại đô đốc Lữ Mông lén lút đánh úp Kinh Châu đồng thời bắt sống và xử tử Quan Vũ. Phàn Thành từ đó cũng được giải vây, Kinh Châu nằm trọn trong tay Tôn Quyền. Một năm sau, Tào Tháo bệnh mất ở tuổi 66, con trai ông là Tào Phi lên kế vị, ông phế truất vua Hán chính thức lên ngôi hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Ngụy; 2 người còn lại là Lưu Bị và Tôn Quyền cũng lần lượt xưng đế hình thành thế chân vạc tam quốc Ngụy - Thục – Ngô. Sau khi xưng đế, Lưu Bị đem 70 vạn đại quân tiến đánh Kinh Châu để trả thù cho người em kết nghĩa Quan Vũ. Đại đô đốc nước Ngô là Lục Tốn kháng cự và sử dụng hỏa công. Lưu Bị thất bại thảm hại, suy sụp và bệnh mất, con trai Lưu Bị là Lưu Thiện lên thay, sai sứ làm hòa với nước Ngô cùng nhau đối địch nước Ngụy. Mùa xuân năm 228, thừa tướng nước Thục là Gia Cát Lượng tiến hành chiến dịch chinh phạt nước Ngụy thống lĩnh 10 vạn quân mã với mục tiêu chiến lược là chiếm đóng Trường An. Sau đó tiến thẳng vào kinh đô nhà Ngụy là Lạc Dương. Ngụy quân đại đô đốc Tư Mã Ý xuất chiến chống trả, chiến tranh Thục - Ngụy kéo dài 6 năm, cả 2 bên đều trong thế giằng co. Do vất vả, mệt nhọc lâu ngày mà sinh bệnh. Gia Cát Lượng không may qua đời trong doanh trại, chỉ thọ được 54 tuổi, học trò của Lượng là Khương Duy lên thay thế tiếp tục công cuộc bắc phạt kéo dài 15 năm. Sau khi đẩy lùi được các cuộc tấn công của quân Thục. Tư Mã Ý đức cao trọng vọng, trở thành trọng thần nước Ngụy. Năm 239, Tư Mã Ý cùng tông thất Tào Sảng làm phụ chính vị vua mới là Tào Phương lên ngôi chỉ mới gần 8 tuổi. Nhằm loại bỏ thế lực họ Tư Mã, Tào Sảng dùng mưu thu hồi binh quyền của Ý. Từ đấy, Tư Mã Ý cáo bệnh xin về hưu nghỉ già. 10 năm sau, nhân cơ hội Tào Sảng và những thân tín không đề phòng, Tư Mã Ý phát động chính biến, giết chết Tào Sảng, xử chém hàng loạt những quan chức trong tôn thất họ Tào đưa gia tộc họ Tư Mã nắm quyền lực toàn diện. Từ đó về sau, các hoàng đế họ Tào đều biến thành bù nhìn của họ Tư Mã. Do các cuộc bắc phạt của Khương Duy đều không mang lại kết quả nước Thục trở nên kiệt quệ và suy yếu. Năm 263, con trai Tư Mã Ý là Tấn Vương Tư Mã Chiêu lúc này đang cầm quyền nước Ngụy, ông cử 2 đại tướng Chung Hội và Đặng Ngải thống lĩnh hơn 10 vạn quân tiến đánh nước Thục. Khương Duy cất binh chống trả, chiến đấu quyết liệt với Chung Hội ở mặt trận phía bắc. Đặng Ngải lúc này đem quân đi đường tắt về phía núi Âm Bình xuống đồng bằng và tiến thẳng vào kinh đô nước Thục. Chúa nước Thục là Lưu Thiện vừa nghe tin đã sợ hãi mà ra đầu hàng. Sau khi vào bên trong Thành Đô thì Đặng Ngải từ trong đánh ra. Chung Hội từ ngoài đánh vào, hình thành 2 mũi giáp công nhanh chóng tiêu diệt nước Thục. Sau khi Thục diệt vong, nhưng Khương Duy vẫn còn nuôi hi vọng phục quốc. Nhận ra Chung Hội và Đặng Ngải có mâu thuẫn từ lâu và cả 2 đều có dã tâm tạo phản, Duy dẫn các tướng Thục đến hàng Chung Hội. Hội và Ngải lúc này đang đấu đá nhau, nhờ kế của Khương Duy, Hội dùng thủ đoạn khiến Ngải bị Tư Mã Chiêu xử tử, loại được 1 kẻ địch ra khỏi cuộc chơi. Sau đó Chung Hội quyết định cùng Khương Duy ở Thành Đô thực hiện kế hoạch tiêu diệt Tư Mã Chiêu mưu đồ thống nhất thiên hạ, không may sự việc bị bại lộ các tướng Ngụy nổi giận đem quân xông vào thành giết chết cả hai. Năm 265, Tư Mã Chiêu qua đời, con trai là Tư Mã Viêm lên thay, không lâu sau ông ép vua Ngụy Tào Hoán thoái vị và lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Tấn. Mùa đông năm 279, Tư Mã Viêm tổng động viên quân đội chinh phạt Đông Ngô. Đến năm 280, quân đội Đông Ngô chống trả yếu ớt rồi tan rã vua Ngô là Tôn Hạo đầu hàng quân Tấn chiến tranh kết thúc, thiên hạ được thống nhất, đóng lại 1 thế kỷ chia cắt đầy biến động. Từ khóa tìm kiếm tam quốc diễn nghĩa tập 2, tam quốc diễn nghĩa truyện, tóm tắt tam quốc diễn nghĩa, tam quốc diễn nghĩa tập 5, tam quốc diễn nghĩa nhân vật, tam quốc diễn nghĩa 2010 vietsub, tam quốc diễn nghĩa tập 3, tam quốc diễn nghĩa phim truyền hình, 1994, tam quốc chí, tam quoc 2019, bài thơ tóm tắt tam quốc diễn nghĩa, tóm tắt tam quốc diễn nghĩa trong 9 phút, tam quốc chí và tam quốc diễn nghĩa, tam quốc diễn nghĩa nhân vật, tóm tắt tam quốc diễn nghĩa hồi 28, tóm tắt nhanh tam quốc diễn nghĩa, bản đồ tam quốc Trong 84 tập phim Tam Quốc Diễn Nghĩa, tác giả La Quán Trung đã xây dựng thành công rất nhiều hình tượng đặc sắc của các nhân vật nổi tiếng, để lại biết bao câu nói bất hủ khiến người xem không ngừng cảm khái và nhớ mãi. Những câu nói mà bất cứ một người yêu Tam Quốc nào cũng đều muốn “học thuộc lòng”. Chúng ta đều biết, Tam Quốc diễn nghĩa cũng là một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc bên cạnh Thủy Hử, Hồng lâu mộng và Tây Du Kí. Nội dung xuyên suốt chủ yếu của tác phẩm kinh điển này nói về cuộc đấu tranh giữa ba thế lực phong kiến bao gồm nhà Ngụy do Tào Tháo đứng đầu, nhà Thục do Lưu Bị đứng đầu và nhà Ngô do Tôn Quyền đứng đầu trong việc nhất thống thiên hạ. Tuy nhiên cái kết cuối cùng lại hết sức bất ngờ khi giang sơn lại rơi vào tay con cháu của Tư Mã Ý, vốn là một đại thần trong triều Ngụy. Không chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học mang tính sử thi, Tam Quốc Diễn Nghĩa còn để lại những giá trị nhân văn đầy sâu sắc cho biết bao thế hệ người đọc trên toàn thế giới. Và chúng ta hãy cùng nhau xem lại 21 câu nói kinh điển của các nhân vật nổi tiếng trong bộ tiểu thuyết này nhé. 1. Tào Tháo – “Ta thà phụ người chứ quyết không để người phụ ta” Câu nói này được Tào Thào nói với Trần Cung khi Trần Cung hỏi Tào A Man rằng tại sao lại giết cả Lã Bá Sa mặc dù biết được gia đình ông ta không hề có ý định hãm hại mình, mà trái lại còn bày tiệc chiêu đãi? Nó thể hiện một góc tính cách của ông man trá, lạnh lùng đến đáng sợ. Tào tháo, một gian hùng nhưng cũng là một anh hùng, luôn mang trong mình tư tưởng đa nghi. Vốn sinh ra tài giỏi hơn người, tính tình hào hoa phóng đãng nhưng nhiều mưu mẹo, có tài dụng quân, cai trị thiên hạ. Việc ông giết cả nhà Lã Bá Sa âu cũng chỉ vì bất đắc dĩ, do giải nhầm những “tín hiệu” trong đêm, lúc tâm ông không tĩnh, vì đang bị truy sát, mà tưởng là kẻ thù đã đến nên mới ra tay tàn độc đến thế. Nhưng tự sâu thẳm Tào Tháo không hề muốn sau này, khi xem cách ông nhìn nhận và trọng dụng nhân tài là biết, nhưng vì quá đa nghi và thông minh mà ông mới có nét tính cách “nguy hiểm” đến vậy. Đó cũng chính là lý do vì sao người ta gắn cho ông cái mác “gian” vào chữ “hùng”, để trở thành một nhân vật “gian hùng” nhất thời Tam Quốc. Tạo nên một nhân vật rất độc đáo đặc biệt, người ta có thể chê ông, chửi ông, nhưng chắc chắn một điều rằng, ai cũng phải “nể” ông, và có rất nhiều điều phải “học hỏi” từ ông… một nhân vật quá xuất chúng, không thể bàn cãi. 2. Gia Cát Lượng – “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Số trời đã định, không thể cưỡng lại” Một trong những người được vinh danh muôn đời sau không ai khác là Gia Cát Lượng, phò tá của Lưu Bị. Sự kiệt xuất của ông khiến kẻ thủ phải cúi đầu kính nể, hậu thế phải nghiêng mình bái phục qua rất nhiều điển tích, trận đánh lớn. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” – Số trời đã định, làm sao cưỡng lại! Kỳ nhân như Gia Cát Lượng ngàn năm khó kiếm, mang trong mình trí huệ tuyệt vời của người tu Đạo, được mệnh danh là “liệu sự như Thần”, tức chỉ có thể là “Thần” mới tính được đến mức ấy, là người thì không thể! Ấy vậy mà trong cuộc đời ông, ông cũng không thể nào tránh khỏi “thiên ý”, vốn là sự sắp đặt của định mệnh, của những sinh mệnh tầng cao hơn hẳn ông, vốn đã “an bài” toàn vẹn trật tự xã hội, sự thịnh suy của các triều đại, và của cả từng cá nhân mỗi một con người… Như lần đốt cha con Tư Mã Ý thất bại vì mưa trên trời tự nhiên’ rơi xuống, cản Lưu Bị tránh khỏi thất bại trong trận Di Lăng không được, lục xuất kỳ sơn nhiều lần suýt thắng thì bị điều về Tứ Xuyên, cầu sống lâu thêm 10 năm nữa để phục dựng sự nghiệp nhà Hán cũng bất thành,… tất cả đó đều là “ý trời”, trời muốn “biến” thì không ai cản nổi… chỉ có thuận theo tự nhiên mới là bậc trí giả, kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt. 3. Lưu Bị – “Thà chết chứ không làm chuyện bất nhân bất nghĩa” Song hành cùng Gia Cát Lượng trong cuộc hành trình chinh phạt Tào Nguỵ là Lưu Bị với triết lí sống ngược lại Tào Tháo “Thà chết chứ không làm chuyện bất nhân bất nghĩa”. Chính vì điều này nên Lưu Bị, mặc dù chỉ là anh bán dép ngoài phố, đã lấy lòng được các anh hùng trong thiên hạ như 2 anh kem Trương Phi – Vân Trường, “thần nhân” Gia Cát Lượng, Triệu Tử Long, Mã Siêu, Hoàng Trung,… và hàng ngàn hàng vạn dân chúng thời bấy giờ, lập nên đại nghiệp hùng tráng, chấn động lịch sử. 4. Chu Du – “Trời đã sinh ra Du sao còn sinh ra Lượng” Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Chu Du là đại danh từ tượng trưng cho lòng dạ hẹp hòi, không chịu thua ai, cũng chỉ khi ông ta bệnh nặng vô phương cứu chữa, không còn sống được bao lâu nữa, mới cảm khái mà thốt ra câu nói này từ tận đáy lòng. Chỉ có điều là câu nói này quá tự ti, tôn vinh chí khí của Gia Cát Lượng, mà hạ mất uy phong của chính mình. Khiến cho hình tượng của hai người này đã định rõ vị trí trong đầu của mọi người mãi về sau. Thực chất, lịch sử cũng giống như một màn kịch, và để con người có thể hiểu thế nào là thiện-ác, đúng-sai, tốt-xấu thì đều cần người đến đễ “diễn” một phen, mới thấu tỏ được hàm nghĩa của từ đó. Trong câu chuyện này, Chu Du vốn là 1 đại đô đốc, một vị anh hùng cái thế nhà Đông Ngô, trí tuệ và uy dũng hơn người, nhưng vạn bất đắc dĩ, lịch sử lại “chọn ông” để đóng cái vai “ghen tỵ” ấy, nếu không thì sẽ khó có thể khiến cho con người hiểu được thế nào là “ghen tỵ”. Hoặc cũng có thể đây chỉ là thổi phồng trong tác phẩm nghệ thuật, với bàn tay cố ý sắp đặt của tác giả, cũng là để nhấn mạnh tình tiết ấy, chứ chưa hẳn trong lịch sử Chu Du là người như vậy. Nhưng có thể khẳng định, Đông Ngô có được 1 người như Chu Du quả là quá may mắn! 5. Lưu Bị – “Khắp người Tử Long đều là gan” Đây là lời bình hăng say nhất của những ai hâm mộ Triệu Vân hay Triệu Tử Long, nguyên là trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Triệu Vân không phải là đối tượng được tác giả tập trung miêu tả, nhưng vì mỗi lần ông ra trận đều là tư thế hiên ngang hùng dũng, đánh đâu thắng đó, có thể được một câu khẳng định của Lưu Bị như vậy, tất nhiên là quá là vui mừng rồi! Còn nhớ trong trận Đương Dương Trường Bản, một mình Triệu Tử Long xung pha trận mạc, lọt giữa đại quân Tào Tháo, vẫn chiến đấu bất khuất, giết chết hơn 50 tướng địch, khiến ngay cả Tào Tháo cũng bội phục, từ đó giải cứu thành công ấu chúa A Đẩu, vang danh thiên hạ. Lòng can đảm, ý chí và sự trung thành ấy khiến người đời sau mỗi lần nhắc đến ông đều vô cùng cảm khái, và dành tặng cho ông một tình cảm vô cùng đặc biệt mà hiếm một nhân vật nào xuất hiện “không nhiều” mà lại được mến mộ đến thế. 6. Tào Tháo – “Sinh con thì phải được như Tôn Trọng Mưu” Tôn Trọng Mưu chính là tên tự của Tôn Quyền. Nhiều người khi mới đọc không hiểu hàm nghĩa của câu nói này của Tào Tháo, rốt cuộc là ông đang khen Tôn Quyền hay đang mắng Tôn Quyền đây. Sau này mới biết, kì thực Tào Tháo là thế hệ cùng thời với Tôn Kiên, cha của Tôn Quyền, nên ông nói câu này cũng không có gì lạ cả. Ngoài ra, ý của Tào Tháo chính là khen Tôn Quyền có thể giữ được cơ nghiệp của cha anh để lại qua bao phen sóng gió thời loạn thế, so với những đứa con bại trận của Viên Thiệu và Lưu Biểu thì quả là khác nhau một trời một vực. Khó trách Tào lại ngậm bồ hòn làm ngọt, rất khen ngợi Tôn Quyền, tự mình nói ra mấy lời này. 7. Tư Mã Huy – “Phục Long, Phượng Sồ, có được một trong hai, ắt được thiên hạ” Tư Mã Huy vô cùng coi trọng Gia Cát Lượng và Bàng Thống, ông từng ví Gia Cát Lượng với Khương Thượng Khương Tử Nha thời nhà Chu, Trương Lương thời nhà Hán, vậy nên những lời này từ miệng ông nói ra cũng không có gì là lạ. Cả hai đều là bậc kỳ tài trong thiên hạ, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, do đó những lời này cũng không phải là nói quá chút nào. Tuy nhiên điều kỳ lạ là Lưu Bị đều có được hai người này, nhưng lại không thể bình định được thiên hạ, không thể không khiến người ta suy ngẫm. Thực ra như đã nói ở trên, đó cũng chính là vì “thiên ý” đã định, chứ không phải nói 2 người này không giỏi. Khí số nhà Hán đã mạt, cần thay đổi triều đại, cũng giống như con người, đến lúc già, phải chết thì sẽ phải chết thôi, cố gắng uống thuốc hay làm gì để kéo dài thọ mệnh cũng khó lòng thay đổi được số phận. Nhưng qua đây mới thấy, dù khí số nhà Hán đã cạn, đến thời Hán Hiến Đế là rơi vào tay Tào Tháo, ấy vậy mà sự xuất hiện của Gia Cát Lượng đã khiến bánh xe lịch sử “chậm lại”, vẫn khiến xuất sinh 2 vị Hoàng Đế cuối cùng của nhà Hán là Lưu Bị và con trai ông, điều này cho thấy tài năng của Gia Cát Lượng là hoàn toàn vượt xa sự tưởng tượng!

bài thơ trong phim tam quốc diễn nghĩa